Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Ánh Trăng (Sơ đồ tư duy) Dàn ý & 11 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Blogdoanhnghiep.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 11 bài Phân tích 2 khổ đầu bài thơ Ánh trăng hay nhất của các bạn học sinh giỏi trong cả nước, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng.
Hai khổ thơ đầu bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Ngoài ra, có thể tham khảo thêm bài Phân tích bài thơ Ánh trăng, phân tích tâm trạng của người lính sau chiến tranh để hiểu rõ hơn về bài thơ Ánh trăng.
Sơ đồ tư duy Phân tích khổ 2 bài thơ Ánh trăng
Dàn ý Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng
1. Mở bài
- Giới thiệu về bài thơ Ánh trăng
- Hai khổ thơ đầu của bài thơ là hình ảnh của vầng trăng khi xưa.
2. Thân bài:
- Hình ảnh vầng trăng là hình ảnh chủ đề, trung tâm của bài thơ.
- Hai khổ đầu là hình ảnh của ánh trăng gắn bó với con người khi còn thiếu niên và cùng nhau trải qua thời gian chiến đấu thời chiến tranh.
- Khổ thơ thứ nhất như kể một câu chuyện theo dòng thời gian từ lúc còn nhỏ tới khi trở thành người chiến sĩ cụ Hồ.
- Cấu trúc lặp và biện pháp liệt kê được sử dụng theo trình tự không gian từ nhỏ tới lớn, từ quê hương rộng ra là đất nước.
- Điệp từ “hồi”: Sự suy tưởng, suy ngẫm về quá khứ, từ lúc thiếu niên tới khi hành quân cùng đồng đội, ánh trăng luôn theo sát bên.
- Khi còn ở chiến khu, “vầng trăng thành tri kỉ”: đi đâu trăng cũng theo sau, nghỉ ngơi cùng nhau tự tình.
=> Tình cảm thật tự nhiên, gắn bó, chân thành, mộc mạc.
- Hình ảnh “trần trụi …cây cỏ”: cảm giác gần gũi, thân thuộc với vầng trăng, tự nhiên như hơi thở, không có khoảng cách.
- Nhà thơ đã tưởng chừng như không thể quên được hình ảnh của vầng trăng ấy “ngỡ không…tình nghĩa”.
- Vầng trăng ở đây được nhân hóa thành nhân vật trữ tình, là một con người thực thụ, chứng nhân những năm tháng từ thơ bé cho tới khi chiến đấu.
=> Ánh trăng không chỉ là một người bạn mà còn là một chứng nhân tượng trưng cho quá khứ, cho những năm tháng không thể nào quên => Nguyễn Duy muốn rút ra bài học: không được quên đi quá khứ, phải sống đúng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
- Nghệ thuật: Thể thơ năm chữ, không viết hoa đầu dòng làm lời thơ như câu chuyện kể. Các biện pháp nhân hóa, so sánh được sử dụng nhuần nhuyễn,
3. Kết bài
- Khẳng định lại đạo lý mà Nguyễn Duy muốn gửi gắm.
Nội dung chính 2 khổ đầu bài thơ Ánh trăng
– Khổ 1: Dòng hoài niệm mở ra
- “Hồi nhỏ…hồi chiến tranh”: đánh dấu mốc thời gian
- Phép liệt kê tăng cấp “đồng, sông, bể”: Tuổi thơ gắn bó với sông nước, trăng sao đầy ắp kỉ niệm. ⇒ Chỉ thứ tự từ hẹp đến rộng, từ quê hương đến đất nước, mở rộng hơn là sự gắn bó giữa những con người ở quê hương đến đồng đội nhân dân
⇒ Như vậy khi còn nhỏ nhân vật trữ tình sống chan hòa với thiên nhiên
- “vầng trăng thành tri kỉ”: đất nước có chiến tranh, con người lên đường tham gia chiến đấu, ở rừng là những năm tháng khó khăn gian khổ, trăng được nhân hóa trở thành người bạn tri kỉ không thể nào quên.
– Khổ 2:
- Phép so sánh sánh “trần trụi, hồn nhiên” kết hợp với phép liệt kê “thiên nhiên, cây cỏ”: lối sống đơn giản, mộc mạc mọi buồn vui sướng khổ đều gắn bó với trăng.
- Ngỡ: nghĩ là, tưởng là, vậy mà kết quả lại ngược lại
- Nhân hóa “cái vầng trăng tình nghĩa”: khẳng định mối quan hệ giữa người và trăng là bền vững mãi mãi
⇒ Mạch thơ biến đổi đánh dấu một sự thay đổi lẽ ra phải trân trọng.
Nội dung khái quát của 2 khổ thơ đầu bài Ánh trăng
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
– Tái hiện lại hình ảnh vầng trăng trong quá khứ
+ Điệp từ “với” tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ
+ Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn nhiên như cây cỏ” → Cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 1
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.
Nguyễn Duy sinh năm 1948, ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt, suy tư khôn ngôi. Hãy lật đến Anh trăng đầy chất triết lí, tìm về Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhẹ nhàng, tình cảm nhóm lại tình yêu gia đình với Hơi ấm ổ rơm, … ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư say sưa ấy trong suốt những tác phẩm của ông.
Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, lung linh rực rỡ một “ánh trăng” tròn đầy. Ánh trăng ấy là lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà hết sức sâu sắc về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những trăn trở suy nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.
Hai khổ thơ đầu tiên gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, tâm tình, kể về một quãng thời gian của tuổi thơ, tuổi trẻ, nhất là quãng thời gian chiến tranh gian khổ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị: “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh”. Câu thơ mở ra một không gian bao la, mênh mông sông nước, khoảng trời ấy nuôi lớn cả một tâm hồn tuổi thơ với bao khát vọng, khoảng rộng ấy được mở ra rồi thu lại khăng khít, gắn bó với quá khứ biết bao tình nghĩa. Điệp từ “với” được nhắc lại ba lần, nhấn mạnh sự thân thiết, gần gũi giữa con người với thiên nhiên:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Cuộc sống “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” tuy khó khăn, vất vả mà chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư và mênh mông hoài bão như thiên nhiên, như cánh rừng mặt bể. Chợt nhận ra, ta có một người bạn hiền hòa, gắn bó, “tri kỉ” – vầng trăng tròn đầy, hiền dịu. vẻ đẹp của trăng xoa dịu những vết thương do chiến tranh gây ra, xoa dịu những mỏi mệt, buồn đau của cuộc sống ấy; trăng vỗ về cho con người bằng những sẻ chia lặng im, bằng những đêm sát cánh bên nhau “đầu súng trăng treo”. Trăng theo ta trên mọi bước đường đi, là người bạn đồng hành tin cậy nhất. Vì lẽ ấy, trăng chính là hiện thân của quá khứ, của kí ức chan hòa tình nghĩa:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Vầng trăng đã được nhân hóa cao độ để trở thành người bạn tinh thần của nhà thơ, một người bạn tri âm tri kỉ tưởng chừng sẽ không bao giờ quên được. Thế nhưng, giữa dòng hồi tưởng tươi đẹp và bình yên, tác giả chợt bất ngờ có những băn khoăn, vướng bận, mờ hồ, báo hiệu cho sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện. Từ “ngỡ” như điểm tiếp nối tinh tế giữa hai khổ thơ, làm bài thơ giữ được nét uyển chuyển trong cả nội dung và ngôn từ.
Vậy là vầng trăng không còn là vật vô tri vô giác mà đã trở thành người bạn, người đồng chí, đồng tình có linh hồn, nhịp đập và hơi thở riêng. Nhưng vầng trăng không chỉ gắn liền với những kỉ niệm, không chỉ đẹp lung linh, tươi mới mà còn là lời nhắc nhở thầm kín của tác giả với người đọc về lối sống nghĩa tình, thủy chung.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 2
Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự bao giờ đã trở nên thân thương gắn bó với con người. Nếu vị thi tiên Lý Bạch khi xa quê đã không thể quên ánh trăng trên đỉnh núi Nga Mi:
“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Nếu Bác kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Nguyễn Duy nhà thơ trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là nguồn sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng” (1978)của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc chân thành và cao đẹp như thế
Bài thơ mang dáng dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu tự nhiên, trôi chảy về mối quan hệ gắn bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Du đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành, 1 không gian thân thương: đồng, sông, bể.Từ không gian đầy ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra niềm say mê, sảng khoái của con người trong cái mát lành dịu ngọt ân tình của quê hương qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng sông, bãi biển.Không gian cứ mở rộng mãi ra, bao la bát ngát theo nhịp trưởng thành của con người.Thời gian không ngừng vận động và cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Khi xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về quay quắt tâm hồn, lúc này người và trăng lại càng gắn bó ánh trăng là bạn tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ trong những năm tháng chiến tranh của tác giả. Như vậy là tuổi thơ chớp mắt đã trôi qua.Cái còn lại lúc này là vầng trăng thật đơn sơ, chung thuỷ.
Hai chữ hồi ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và trưởng thành. Ánh trăng soi rọi về quá khứ khiến tiếng nói tâm tình trở nên sâu lắng thiết tha
Trần trụi giữa thiên nhiên
……….
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn, trăng gắn bó sâu nặng với con người mà không trở lực nào có thể ngăn cách. Những năm tháng con người sống thật nhất với mình, trần trụi, hồn nhiên là khi con người ta trân trọng, đinh ninh một lời thề son sắt “ngỡ không bao giờ quên, cái vầng trăng tình nghĩa”.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 3
Trước kia, con người sống hòa mình vào thiên nhiên, sống hồn nhiên, vui vẻ. Và vầng trăng sáng trên bầu trời đêm khi ấy giống như người bạn thân thiết với con người vậy. Điều đó, đã được thể hiện qua hai khổ thơ đầu bài thơ ánh trăng.
Ngay khi ta đọc khổ thơ thứ nhất:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Với giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, lại kết hợp với cụm từ “ hồi nhỏ, hồi chiến tranh” đã gợi ta liên tưởng một quãng thời gian dài từ niên thiếu đến trưởng thành, nhất là những năm tháng gian lao thời chiến tranh. Từ khi còn nhỏ, con người đã sống chan hòa, gắn bó với thiên nhiên :
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ”
Ta thấy, con người lúc bấy giờ luôn sống gắn bó, hòa hợp với đồng, sông, bể, rừng. nghệ thuật điệp từ “với, hồi” kết hợp cùng với biện pháp liệt kê đã cho người đọc thấy điều đó. Hơn hết, nó mở ra trong tâm trí ta một không gian bao la, rộng lớn, khoáng đạt, đồng thời là niềm hạnh phúc của tuổi trẻ khi gắn bó với thiên nhiên và vầng trăng. Đến khi đi lính, trưởng thành, vầng trăng sáng vẫn luôn là bạn, gắn bó với con người. Trăng và người đã sống với nhau thân thiết, hồn nhiên, vô tư đến độ “như cây cỏ”. Giữa họ có một tình bạn trong sáng, không vụ lợi. Tình cảm chân thành, bền chặt của con người với vầng trăng được diễn tả qu biện pháp so sánh và đồng thời là cả nhân hóa nữa.Ta thấy con người khi ấy coi trăng như tri kỉ, như tình nghĩa. Với sự gắn bó nghĩa tình ấy, con người đã từng tâm niệm :
“Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ ngỡ được đặt lên trên đầu của câu, nó như vừa nói lên điều tâm niệm sâu sắc trong lòng con người, vừa như báo trước một sự thay đổi lớn lao.
Và qua hai khổ thơ đầu ấy, ta thấy vầng trăng mộc mạc, giản dị ấy cũng giống như tầm hồn chân chất, hồn nhiên của người lính khi gắn bó với thiên nhiên.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 4
Hẳn trong tâm trí chúng ta chưa thể quên những lời thơ mộc mạc, giản dị mà chan chứa tình cảm trong bài thơ Tre Việt Nam của tác giả. Nếu Tre Việt Nam tựa như một khúc đồng dao ngân nga trong tâm hồn thì bước vào thế giới của ánh trăng, ta lại gặp những lời thơ chân thành, ẩn chứa niềm băn khoăn, day dứt:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn, Nguyễn Duy đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành của mình. Khổ thơ nhẹ nhàng đưa người đọc lần về quá khứ, hai chữ “hồi ở câu một và ba làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và lúc trưởng thành! Cả một hệ thống những đồng, sông, bể gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, nó cứ mở rộng dần ra cùng với thời gian lớn dần lên của đứa trẻ. Nhưng cái chính là nó diễn tả một nỗi niềm sung sướng đến hả hê được chan hòa, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt.
Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông) kết hợp cùng từ “với” điệp lại ba lần gợi lên cái thế bè đôi thật quấn quýt chia sẻ, cảm thông, dìu đỡ con người, và đồng hay sông, rồi bể như những người bạn vô tư. ở hai câu đầu không thấy nói đến vầng trăng. Chỉ đến khi lớn lên, cái ánh sáng bàng bạc mơ hồ của ánh trăng mới neo đậu vào trí nhớ con người khi phải xa cách quê hương. Và người dẫn đường chỉ lối cho dòng suy nghĩ ấy chính là ánh trăng. Dường như cái ánh sáng cao khiết ấy soi rọi đến từng ngõ ngách khiến con đường trở về quá khứ trở nên sáng rõ. Vầng trăng đối với người cầm súng ở trong rừng đã thay thế cho tất cả, cả đồng, sông, bể để trở nên một người bạn đồng hành, thành vầng trăng tri kỉ:
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
“Tri kỉ” là biết người như biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ. Trăng đã chia ngọt sẻ bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận của người lính tiền phương. Nếu các tao nhân xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt” thì anh bộ đội Cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều lần đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi hay đứng canh chờ giặc giữa rừng khuya sương muối cũng say sưa ngắm vầng trăng cao nguyên. Càng thú vị biết bao, cái vầng trăng từng làm mê đắm bao tâm hồn thi nhân của mọi thời đại hiện lên trong lời thơ của Nguyễn Duy vẫn rất mới mẻ, không hề trùng lặp
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Để cho ta giật mình
Chính cái giật mình thức tỉnh đáng trân trọng của tác giả khiến lòng ta cảm động. Một sự thức tỉnh đầy ý nghĩa. Ý kết của bài thơ đã nâng những suy nghĩ của tác giả lên tầm khái quát – triết lí: Ai cũng có những lúc vô tình quên đi những gì tốt đẹp của ngày xưa. Nếu như không có sự thức tỉnh, những lúc giật mình nhìn lại của lương tâm thì biết đâu chúng ta sẽ đánh mất chính mình? Cả bài thơ đẫm trong ánh trăng trong trẻo, ngời mát và ám ảnh. Lí Bạch đã từng có hai câu thơ rất nổi tiếng:
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Giữa miền đất xa lạ dẫu vẫn nằm trên đất Trung Hoa, Lí Bạch nhìn vầng trăng mà nhớ quê hương, như níu lấy chút gì thân quen để sưởi ấm tâm hồn người lữ khách. Thì với Nguyễn Duy, vầng trăng ngời tỏ trên bầu trời kia gợi lại cả một thời trong quá khứ và đặc biệt làm cho tâm hồn thi nhân bừng tỉnh và trở về với chính mình. Có bao giờ ta tự hỏi tại sao cũng chỉ là vầng trăng ấy thôi, con người lại có thể nhìn thấy nhiều điều khác nhau đến thế? Vầng trăng trong thơ Nguyễn Duy còn có ý nghĩa biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế, trăng còn là vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống. Trăng cứ tròn vành vạnh như tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. ánh trăng im phăng phắc chính là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ kể chi người vô tình là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thuỷ chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 5
Từ xưa đến nay, ánh trăng với các thi nhân mà nói luôn là nguồn cảm hứng bất tận để sáng tạo ra những tác phẩm để đời. Ánh trăng là bạn, là người thương, là tri kỉ đối với họ. Như Bác Hồ của chúng ta, Người cũng say mê ánh trăng, vầng trăng ấy với biết bao bài thơ về trăng như Vọng nguyệt, Rằm tháng Giêng, … Và Nguyễn Duy cũng là một người yêu trăng như bao thi sĩ khác, thế nhưng ánh trăng ấy với ông lại mang thêm một tầng ý nghĩa mới, không chỉ là bạn, là tri kỷ, ánh trăng ấy còn tượng trưng cho quá khứ, cho tuổi thơ, cho những năm tháng hào hùng của dân tộc. Ông đã thể hiện điều đó thông qua hai khổ thơ đầu bài thơ Ánh trăng của mình:
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với biển
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”.
Lời thơ ở đây không mỹ miều, không thi vị hóa, nó giản dị, mộc mạc như đang kể một câu chuyện ngày xưa. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn ngủi, Nguyễn Duy đã dựng lên cho chúng ta thấy cuộc sống của một con người từ những ngày còn thơ ấu cho đến những lúc trưởng thành. Chẳng có một sự đong đếm nào ở đây, nhưng người đọc lại như cảm thấy được bước đi của thời gian từ “hồi nhỏ” – lúc thơ ấu, đến “hồi chiến tranh” – khi là thanh niên. Và trong tất cả quãng thời gian ấy, ánh trăng là hình ảnh trung tâm, là hình ảnh xuyên suốt đi cùng con người. Điệp từ “hồi” như nhấn mạnh cái quá khứ đã xa xôi, nhưng vẫn còn nguyên, hiện rõ trong tâm khảm của nhà thơ. Đó là sự hồi tưởng về những ngày tháng quá khứ, gợi lên những hình ảnh không thể quên từ lúc còn thơ ấu, đến khi hành quân bên đồng đội, ánh trăng vẫn luôn đồng hành cũng nhà thơ. Không gian ở đây được mở rộng từ “đồng” đến “sông” rồi đến “biển” theo trình tự liệt kê, đó là quá trình trưởng thành từ nhỏ tới lớn của nhà thơ, từ quê hương rộng ra đất nước.
Ngày còn bé, ánh trăng cùng chơi đùa với con người. Sau này, lên tới chiến khu, “vầng trăng thành tri kỉ” bởi đi đâu vầng trăng ấy cũng theo sau, cùng con người trải qua những tháng năm gian khổ chiến tranh, cùng nhau tình tự lúc nghỉ ngơi dọc đường. Như Chính Hữu cũng đã từng nhắc về vầng trăng ấy trong tác phẩm “Đồng chí” của mình:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Phải, vầng trăng ấy, ánh trăng ấy gắn bó với con người thật sâu sắc, thật gần gũi, chân thành biết bao! Nó là chứng nhân cho hết thảy những năm tháng gian khổ, vất vả của con người.
Cái vầng trăng ấy với con người tưởng chừng đã gắn kết, một sự gắn kết tự nhiên, thân thuộc như hơi thở, không còn khoảng cách:
” Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ”
Nhà thơ đã tưởng chừng như cái vầng trăng ấy đã biến thành một người bạn tri kỉ, chẳng bao giờ có thể thôi không nhớ tới. Vầng trăng ở đây được nhân hóa thành một con người, một nhân vật trữ tình đầy xúc cảm, một tri kỉ đã theo suốt những tháng năm tuổi thơ và thời kì hành quân vất vả. Nhà thơ đã nghiễm tưởng sẽ chẳng bao giờ có thể quên đi được:
“ngỡ chẳng bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Bởi nó quá gắn bó, quá thủy chung với con người. Nhà thơ nhấn mạnh hai chữ “tình nghĩa” như nhấn mạnh sự gắn kết, nhấn mạnh thứ tình cảm bao năm tháng của con người đã có với nhau.
Ánh trăng ở đây không còn đơn thuần là một người bạn tri kỉ nữa, nó là chứng nhân của năm tháng con người, là thứ biểu tượng cho quá khứ. Con người sống ở hiện tại, hướng tới tương lai nhưng không được phép quên đi cái quá khứ ngày xưa đã từng gian khổ đi lên. Đây là chân lý, là bài học mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm tới chúng ta qua hai khổ đầu bài thơ Ánh trăng này.
Thể thơ năm chữ nhịp nhàng, uyển chuyển, không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ, bởi mỗi khổ thơ, Nguyễn Duy lại kể cho chúng ta nghe một câu chuyện về vầng trăng mà ông đã gắn bó. Cùng với các biện pháp nhân hóa, so sánh, Nguyễn Duy muốn nhấn mạnh ý nghĩa của vầng trăng kia, nó là một người bạn, là một chứng nhân cho quá trình trưởng thành của con người, cho những năm tháng khốc liệt của chiến tranh trong quá khứ.
Ánh trăng ở đây không còn đơn thuần là ánh trăng nữa mà nó còn tượng trưng cho quá khứ, chi những năm tháng đã từng gắn bó với nhau. Qua hai khổ thơ, Nguyễn Duy không chỉ muốn viết về ánh trắng mà còn muốn nhắc nhở chúng ta bài học: không được phép quên đi quá khứ, phải sống chung thủy, trọn vẹn nghĩa tình, đúng với đạo lý cha ông ta từng nói “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 6
Nguyễn Duy là nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sáng tác của ông thấm đẫm phong vị của ca dao, dân ca nhưng nhiều bài văn có cái ngang tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ đi sâu vào tâm hồn người đọc một cách tự nhiên và có lúc khiến người ta phải giật mình. Ánh trăng là một thi phẩm như thế. Nó tựa như một câu chuyện nhỏ có các sự kiện diễn biến theo trình tự thời gian. Lời thơ dung dị như lời kể những chất thơ vẫn đong đầy và ẩn chứa những triết lí sâu sắc về con người, cuộc đời.
Mở đầu bài thơ là những kỉ niệm êm đềm, tươi đẹp giữa trăng và người trong quá khứ. Một loạt những mốc thời gian được liệt kê, như một cuốn phim quay chậm:
Hồi nhỏ sống với đồng
……….
Vầng trăng thành tri ki.
Lời thơ như không hề có sử dụng công nghệ thuật mà chỉ là sự đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện: hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh. Thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, thơ dại đến khi trưởng thành và trong những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, khôn cùng, gợi hình ảnh Ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian. Cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc chan hòa cùng thiên nhiên của tác giả. Khi lớn lên, bước chân vào đời lính gian khổ, giữa núi rừng hoang lạnh “vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng theo sát bước chân người lính, cùng chia sẻ buồn vui của cuộc sống chiến đấu. Ta chợt nhớ tới vầng trăng của tình đồng đội thiêng liêng trong sáng tác của Chính Hữu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Chính Hữu – Đồng chí)
Trăng thực sự là một người bạn thân thiết trong những năm tháng tuổi nhỏ và là người “tri kỉ” của người lính trong những tháng ngày khói lửa chiến tranh. Con người giản dị, hồn nhiên như bản tính vốn có của tự nhiên bao đời:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.
Tính từ “trần trụi”, “hồn nhiên” được đặt ở hai đầu dòng thơ như muốn nhấn mạnh khi chất của con người. Trăng và người cứ hồn nhiên như thể, như sông, như đồng, như bể, như tâm hồn chân chất của những người nông dân mộc mạc, như tinh thần lạc quan, bay bổng của những người lính. Cách gieo vần lưng “thiên nhiên”, “hồn nhiên” làm cho âm điệu thơ liền mạch, khơi dòng cảm xúc dâng tràn trong tâm hồn thi nhân. Từ “ngỡ” như báo trước một sự đổi thay, một điều bất thường.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 7
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của ông mang đậm những triết lý, suy tư về cuộc đời và cuộc sống. Ánh trăng là một trong những sáng tác nổi bật cho đời thơ Nguyễn Duy, là lời gửi gắm đến mọi người về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính.
Bài thơ gồm sáu khổ thơ năm chữ kết hợp tự sự với trữ tình, là hồi ức mộc mạc, giản dị được kể lại theo trình tự thời gian. Từ một câu chuyện riêng của tác giả, Ánh trăng trở thành lời nhắc nhở sâu xa thấm thía về cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao nhưng đầy tình nghĩa đối với thiên nhiên đất nước.
Mở đầu bài là những dòng hồi ức mộc mạc, giản dị. Những ký ức thuở nào ùa về hết sức chân thành:
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
………
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Đoạn thơ gợi lại ký ức của tác giả, một tuổi thơ bình dị với đồng ruộng mênh mông, với con sông bát ngát, với những cánh đồng trĩu nặng phù sa. Vầng trăng xuất hiện trong ký ức tuổi thơ là những tháng ngày giăng câu, xúc tép giữa đêm hôm được vầng trăng soi rọi, là những đêm quây quần bên góc sân, cùng nghe kể chuyện ngày xưa, cùng thổi nồi bánh nóng dưới ánh sáng vàng nhạt của ánh trăng. Trăng không chỉ soi tỏ góc sân mà còn tràn ngập cả vườn cây, đồng lúa, không chỉ soi sáng vùng trời mà còn soi rọi cả tuổi thơ. Lớn lên, theo kháng chiến trường kỳ, nhà thơ gắn bó với ánh trăng trong những năm dài chiến đấu.
Vầng trăng vì thế cũng trở nên thân quen bởi giữa rừng núi hoang vu cùng đồng đội “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, cũng trong những đêm ấy, vầng trăng như hòa cùng tinh thần người lính, tạo nên cái nhìn tinh nghịch “đầu súng trăng treo”. Bao lần họ cùng đắm mình dưới trăng, cùng hát ca, quây quần dưới tiếng khèn vi vút trong những đêm liên hoan, cùng ngắm mảnh trăng nhớ về ánh mắt người yêu đang trông đợi ở quê nhà, cùng hành quân trên chặng đường đầy ánh trăng sáng. Anh và trăng vì thế đã trở thành đôi bạn thân, khăng khít, gắn bó ngỡ không thể nào quên. Tình cảm ấy, nghĩa tình ấy chỉ có thể gọi với nhau bằng hai từ “tri kỷ”.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 8
“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy, … tác giả, bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả cứ “rưng rưng” nước mắt:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng, là bể
Như là sông, là rừng”.
Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Tác giả không dấu được niềm xúc dộng mãnh liệt của mình. “Vầng trăng” nhắc nhở tác giả đừng bao giờ quên những tháng năm gian khổ ấy, đừng bao giờ quên tình bạn, tình đồng chí đồng đội, những người đã từng đồng cam cộng khổ. chia ngọt sẻ bùi trong những tháng năm chiến dấu đầy gian lao thử thách.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình… ”
Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình chiến đấu trong những tháng năm “không thể nào quên”.
“Ánh trăng” của Nguyền Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thủy chung khiến người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 9
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, người đọc biết đến ông qua bài thơ Cây tre Việt Nam.Thời bình ông đổi mới sáng tạo nghệ thuật đi tìm triết lí lối sống của con và Ánh Trăng là một minh chứng sáng tác. Đặc biệt 2 khổ thơ đầu của bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Tác giả đưa ta về với năm tháng tuổi thơ, từ hồi nhỏ gợi khoảng thời gian, tuổi thơ, hình ảnh cậu bé sống nông thôn cùng bạn bè dạo chơi đồng sông bể có ánh trăng đầy kỉ niệm. Theo thời gian cậu bé lớn lên vào chiến trường
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Đó là những năm tháng gian lao cùng với đồng đội chiến đấu, trăng soi đường lúc hành quân, lúc nghỉ ngơi trăng tự tình trở thành tri kỉ. Tình cảm những năm tháng ấy thật hoang sơ mộc mạc
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Hình ảnh trần trụi hồn nhiên gợi cho ta cảm nhận đây là khoảng thời gian giữa con người và thiên nhiên xích lại gần nhau hơn. Không vật vã không một chút suy nghĩ phân cách, nó trong trắng, hồn nhiên đó là tình bạn tuổi thơ, tình đồng đội mà nhân vật trữ tình ngỡ không thể nào quên.Vậy mà khi chiến tranh kết thúc, người lính trở về cuộc sống đời thường nhân vật trữ tình may mắn được sống và làm việc trên thành phố thì đã quên mất, bỏ lỡ người bạn tri kỉ năm xưa
Khi đất nước xã hội chuyển mình phát triển, con người sẽ bắt nhịp cuộc sống mới, sẽ vô tình quên đi quá khứ quên đi nghĩa tình, 2 khổ thơ đầu Ánh Trăng của Nguyễn Duy giúp ta thấu hiểu như một lời nhắc nhở răn đe ta không được lơ là quá khứ bằng lời thơ hết sức giản dị, ngôn ngữ mộc mạc giọng điệu nhẹ nhàng như là lời tâm tình của tác giả với thể thơ 5 chữ giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn về đạo lý sống đẹp của con người, hãy sống thủy chung, sống đúng đạo lý dân tộc”ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 10
Trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở nhưng không bao giờ cũ trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam. Đến với trăng, khó ai có thể kìm lòng trước vẻ đẹp của nó. Nếu đến với trăng của các nhà thơ lớn của dân tộc như Thế Lữ có ” Nhớ rừng”; ”Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu hay ”Rằm tháng giêng, Cảnh khuya, Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh…ta đều thấy xuất hiện trước mắt một bức tranh đêm trăng đầy thơ mộng, bí ẩn và huyền ảo. Thế nhưng, đến với ”Ánh Trăng” của Nguyễn Duy, ta lại bắt gặp một tư tưởng hoàn toàn mới lạ. Trăng ở đây là quá khứ thuỷ chung, bất diệt; là người bạn nghĩa tình, tri kỉ; là bài học thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc.
Hai khổ thơ đầu là những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh: Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Bốn câu thơ gắn với giọng đọc thủ thỉ, tâm tình “hồi nhỏ”, “chiến tranh” đã gợi lại một quãng thời gian dài từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành và nhất là trong những năm tháng gian lao thời chiến tranh. Cả một thời gian dài có biết bao nhiêu kỉ niệm đẹp với trăng.
Khổ thơ mở ra một không gian, thời gian bao la. Trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuộc sống bình dị, vô tư, hồn nhiên, khẳng định tình cảm bền chặt gắn bó của con người với vầng trăng là “tri kỉ”, “tình nghĩa”. Trăng là người bạn chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những đau thương, nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu… Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hoà tình nghĩa… Điệp từ “với”, điệp cấu trúc “hồi nhỏ, hồi chiến tranh” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ. “Hồi chiến tranh ở rừng” là những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh, “vầng trăng thành tri kỉ”.
Câu thơ được sử dụng nghệ thuật nhân hóa, trăng giống như người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ. Họ hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi “Rừng hoang sương muối” (Đồng chí), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê… Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn, Nguyễn Duy đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành của mình. Khổ thơ nhẹ nhàng đưa người đọc lần về quá khứ, hai chữ “hồi ở câu một và ba làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và lúc trưởng thành!
Cả một hệ thống những đồng, sông, bể gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, nó cứ mở rộng dần ra cùng với thời gian lớn dần lên của đứa trẻ. Nhưng cái chính là nó diễn tả một nỗi niềm sung sướng đến hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông) kết hợp cùng từ “với” điệp lại ba lần gợi lên cái thế bè đôi thật quấn quýt chia sẻ, cảm thông, dìu đỡ con người, và đồng hay sông, rồi bể như những người bạn vô tư. ở hai câu đầu không thấy nói đến vầng trăng. Chỉ đến khi lớn lên, cái ánh sáng bàng bạc mơ hồ của ánh trăng mới neo đậu vào trí nhớ con người khi phải xa cách quê hương.Và người dẫn đường chỉ lối cho dòng suy nghĩ ấy chính là ánh trăng. Dường như cái ánh sáng cao khiết ấy soi rọi đến từng ngõ ngách khiến con đường trở về quá khứ trở nên sáng rõ. Vầng trăng đối với người cầm súng ở trong rừng đã thay thế cho tất cả, cả đồng, sông, bể để trở nên một người bạn đồng hành, thành vầng trăng tri kỉ: hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ “Tri kỉ” là biết người như biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình.
Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ. Trăng đã chia ngọt sẻ bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận của người lính tiền phương. Nếu các tao nhân xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt” thì anh bộ đội Cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều lần đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi hay đứng canh chờ giặc giữa rừng khuya sương muối cũng say sưa ngắm vầng trăng cao nguyên. Càng thú vị biết bao, cái vầng trăng từng làm mê đắm bao tâm hồn thi nhân của mọi thời đại hiện lên trong lời thơ của Nguyễn Duy vẫn rất mới mẻ, không hề trùng lặp: Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa Vầng trăng hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ mà gần gũi. Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bạn hữu. Vầng trăng là biểu tượng đẹp cho những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Cái vầng trăng tình nghĩa ấy đã từng khiến tác giả ngỡ không bao giờ quên. Mạch thơ vẫn được tiếp nối tựa như người bộ hành tiếp tục chuyến đi sau lúc nghỉ chân. ánh trăng vẫn len lỏi, quấn quýt và có phần nồng nàn, đậm sắc hơn. Lời thơ vẫn thủ thỉ, tâm tình nhưng dường như đã xuất hiện những biến chuyển trong lời tâm sự của tác giả ngỡ không bao giờ quên. Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn nhiên như cây cỏ” cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng.
Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng. “không…quên…vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm thắm thiết với vầng trăng. Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao. Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình. Vầng trăng được nhân hóa để trở thành người bạn tri kỉ với nhân vật trữ tình của bài thơ. Sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm “không bao giờ quên”. Giọng thơ hồi tưởng đều đặn nhưng từ “ngỡ” như báo hiệu sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ. Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy.
Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn, trăng gắn bó sâu nặng với con người mà không trở lực nào có thể ngăn cách. Những năm tháng con người sống thật nhất với mình, trần trụi, hồn nhiên là khi con người ta trân trọng, đinh ninh một lời thề son sắt “ngỡ không bao giờ quên, cái vầng trăng tình nghĩa” Từ ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa khép lại thời quá khứ vừa mở ra thời hiện tại tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ tiếp theo.
Nhắc đến thơ Nguyễn Duy, có người nhận xét: ”Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, tha thiết cái hồn, cái vía của dân ca, ca dao Việt Nam. Những bài thơ của ông không cố gắng tìm những hình thức mới mẻ mà đi sâu vào cái nghĩa, cái tình muôn đời của con người Việt Nam. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Duy cũng không bóng bẩy mà gần gũi, dân dã, đôi khi còn hơi” bụi” phù hợp với ngôn ngữ thường nhật”. Quả đúng như vậy! Chỉ qua bài ” Ánh trăng” ta cũng đủ để thấy được tài hoa trong nghệ thuật viết thơ của Nguyễn Duy.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng – Mẫu 11
Nhà văn Nguyễn Tuân có lần từng nói: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ trước bài thơ ấy dường như vẫn còn bị phong kín” vì vậy mỗi một sáng tác thơ ca đều phải mở ra một điều gì đấy mới mẻ về tư tưởng về nội dung về nghệ thuật trong tâm trí của người đọc.
Nếu Lí Bạch đã từng nâng chén cùng với trăng sáng trên cao để thấm thía nỗi cô đơn mình với bóng là ba, nếu Nguyễn Du đã để vầng trăng là nhân chứng cho mối lương duyên của Thúy Kiều – Kim Trọng, thì chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng coi trăng như một người bạn tri kỷ, thân thiết “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cũng viết về vầng trăng, hình tượng vốn bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, nhưng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.
Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Người lính chiến từ giã chiến trường trở về giữa phố thị, sống trong cảnh hòa bình, đất nước đổi mới, trong lúc đó dường như sự đủ đầy vật chất, cuộc sống bộn bề đã khiến con người ta vô tình quên đi những năm tháng gian khổ nhưng ân tình thủy chung. Để khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra…
Trong 2 khổ thơ đầu mạch cảm xúc của Nguyễn Duy hướng về những kỷ niệm trong quá khứ, sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước đi của cuộc đời nhà thơ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Ngay từ khổ thơ đầu thì nhà thơ đã mở ra trong một dòng hoài niệm hết sức tha thiết về tuổi ấu thơ của chính mình bằng nhịp thơ đều đặn, với những câu thơ 5 chữ ngắn gọn, đầy cảm xúc. Đó là lời của một người lính từng đi qua chiến tranh gian khổ này về sống giữa Sài Gòn xa hoa, người lính ấy hồi tưởng về tuổi thơ, về thời trai tráng chinh chiến sa trường.
Nếu lúc nhỏ cuộc đời của cậu bé Nguyễn Duy gắn bó mật thiết với đồng ruộng, với dòng sông tươi mát, với vùng biển bao la, thì khi lớn lên vào cuộc chiến, cuộc sống của nhà thơ lại tiếp tục gắn bó sâu sắc với thiên nhiên núi rừng, như Tố Hữu nói trong Việt Bắc “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
Thế nhưng dẫu hoàn cảnh, điều kiện sống có đổi thay thì duy chỉ có một thứ chẳng hề thay đổi ấy là vầng trăng trên cao, vầng trăng ấy trong lòng của tác giả đã trở thành tri âm, tri kỷ, là người bầu bạn trong những năm tháng hoa niên, trong từng bước hành quân chiến đấu. Trăng chia sẻ những nỗi vui buồn, những niềm gian khó, đi đến đâu trăng theo đến ấy, thân thương, gần gũi vô cùng. Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ và vầng trăng được làm rõ qua mấy câu thơ.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Cuộc sống của tác giả, từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn bó mật thiết và “trần trụi” với thiên nhiên, không che giấu bất kỳ điều gì, tác giả sống một cách đơn giản, bình yên và hồn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mạnh mẽ dẻo dai.
Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ “ngỡ”, cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt mấy mươi năm cuộc đời kia. Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “Ngỡ không bao giờ quên – Cái vầng trăng tình nghĩa”.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Ánh Trăng (Sơ đồ tư duy) Dàn ý & 11 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Blogdoanhnghiep.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.