Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích tâm trạng các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia 2 Dàn ý & 11 bài văn mẫu hay nhất tại Blogdoanhnghiep.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Phân tích tâm trạng các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia gồm 11 mẫu và gợi ý cách viết chi tiết nhất. Qua đó các thầy cô giáo và các em học sinh ôn tập, củng cố những kiến thức, kĩ năng đã học trên lớp, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập để đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra.
Qua phân tích các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia chúng ta có thể thấy được cuộc sống xa hoa, không có tình người của giới thượng lưu. Đồng thời cũng thể hiện tài năng khắc họa chân dung nhân vật và nghệ thuật trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Vậy sau đây là TOP 11 mẫu phân tích các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia, mời các bạn đón đọc.
Dàn ý chi tiết phân tích tâm trạng các nhân vật
Dàn ý số 1
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề: Số đỏ là cuốn tiểu thuyết ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học có nó cũng là tác phẩm đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được thể hiện trực tiếp thông qua việc khắc họa tâm trạng và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện.
2. Thân bài
– “Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương V của tiểu thuyết Số đỏ nói về đám ma của cụ cố Tổ.
–> Qua đám ma rình rang, hoành tráng đó tính cách của từng nhân vật dần được bộc lộ.
– Đám ma của cụ cố Tổ diễn ra thật lạ lùng, lạ lùng từ những nghi thức đến thái độ của những thành viên trong gia đình và những người ngoài gia đình.
– Không hề có giọt nước mắt đau khổ, xót thương nào mà ngược lại sự ra đi của cụ cố Tổ còn mang đến hạnh phúc cho tất cả mọi người, nghịch lí này được thể hiện chính trong nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”.
– Tất cả mọi người trong gia đình đều có những niềm vui riêng trước sự ra đi của cụ cố Tổ:
- Cố Hồng vui vì được diễn vai của người con cả có hiếu, muốn được nghe những lời trầm trồ tán thưởng của bà con trong khu phố về cái phúc của một gia đình đại tư sản rằng khi con trai đã già mà cha mới mất.
- Văn Minh cảm thấy vui sướng vì cái chúc thư kia cuối cùng cũng đi vào giai đoạn thực hành.
- Cô Tuyết vui vì được mặc bộ trang phục ngây thơ để khoe với mọi người rằng mình chưa đánh mất chữ trinh
- Phán Mọc Sừng vui sướng, hạnh phúc vì nhận được khoản tiền kha khá.
- Cậu Tú Tân vui vì có dịp trổ tài chụp ảnh
– Không những người trong gia đình cảm thấy hạnh phúc mà niềm vui có khả năng lây lan ra tất cả mọi người ngoài gia đình.
- Những người bạn của gia đình vui vì có dịp khoe các loại râu, các loại huân chương cao quý, đặc biệt hơn họ còn cảm thấy vui vì được ngắm bờ ngực thấp thoáng trong bộ y phục ngây thơ của cô Tuyết.
- Hai viên cảnh sát Min-đơ, Min-toa thì vui vì được ghi biên bản phạt.
- Đám thanh niên nam nữ đi đưa tang vui vì được trò chuyện vui vẻ, chim chuột nhau.
- Người dân hàng phố thì vui vì được “thưởng thức” một đám ma to của gia đình đại tư sản danh giá.
–> Đám ma được tổ chức hoành tráng, nhưng lại mất đi cái trang nghiêm vốn có mà thể hiện đến tận cùng cái lố lăng, thiếu hiểu biết của những người trong gia đình.
3. Kết bài
Thông qua bối cảnh của đám ma, từng lớp mặt nạ của những nhân vật trong truyện được bóc trần, thể hiện đến cùng cái giả dối, giả nhân giả nghĩa của những kẻ tự xưng trí thức, những người thuộc giới thượng lưu danh giá.
Dàn ý số 2
I. Mở bài:
– Giới thiệu những nét tiêu biểu nhất về cây bút hiện thực Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
– Trong đoạn trích, tâm trạng các nhân vật trước cái chết của cụ cố Tổ là một khía cạnh làm nên chất trào phúng cho đoạn trích
II. Thân bài:
Trước cái chết của một con người, đáng lẽ những người xung quanh phải có thái độ đau buồn nhưng tâm trạng của các nhân vật (kể cả trong gia đình hay ngoài gia đình) đều làm cho người đọc cảm giác phẫn nộ
1. Tâm trạng của những người trong gia đình
– Cụ cố Hồng:
+ Đặc biệt háo danh: mới năm mươi tuổi, cụ cố Hồng mong được gọi là “cố”
+ Sung sướng đến ngây ngất vì nhờ có cái chết thật của cha mình mà được mọi người chú ý, vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người
+ Mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo để người ta nghĩ “ úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”
⇒Con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình
– Cụ bà: sung sướng vì ông Đốc tờ Xuân đã không giận mà còn giúp đáp, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể là đã danh giá nhất
– Ông Văn Minh:
+ Vui vì chúc thư đã đi vào thời kì thực hiện chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa
+ Vò đầu bứt tóc hợp thời trang hợp với một nhà có đám, kì thực, ông ta đang lo gột rửa bằng xà phòng thơm cho quá khứ của Xuân.
⇒ Bất hiếu, đầy dã tâm
– Bà Văn Minh vợ:
+ sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen…
+ mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.
→ Người cháu thực dụng, thiếu tình người
– Cậu Tú Tân: Điên người lên vì bây giờ mới có dịp dùng đến mấy cái máy ảnh mà cậu đã chuẩn bị từ lâu ⇒ thiếu suy nghĩ, thiếu tình cảm ruột thịt
– Tuyết:
+ Vui vì có dịp mặc bộ y phục “Ngây thơ” để thiên hạ thấy rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh.
+ khuôn mặt buồn, nhưng không phải cái buồn đau thương mà là buồn lãng mạn “đúng mốt” vì chờ mãi chưa thấy bạn trai đâu cả
→ Người con gái hư hỏng, lẳng lơ.
– Phán mọc sừng:
+ Là kẻ trơ trẽn nhất, y vô cùng hãnh diện vì không ngờ “đôi sừng hươu vô hình ai cắm trên đầu mình lại có giá trị như vậy”.
→ Chỉ coi trọng và vui mừng vì mình được thêm một khoản, không có nhân cách, vô liêm sĩ
– Đám cháu con: Một bầy cháu con chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ Tổ.
2. Tâm trạng của những người ngoài gia đình
– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa: “giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.
– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương
– Nhà sư: Sư cụ Tăng Phú sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng, trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo
– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chú ý vào những kiểu quần áo tang…
⇒ Không một ai thực sự tiếc thương cho sự ra đi của người đã mất, đây là những con người không một chút hiếu nghĩa, mất hết tình người
III. Kết bài:
– Khẳng định những nét nghệ thuật tiêu biểu thể hiện thành công tâm trạng của các nhân vật trong đoạn trích: bút pháp hiện thực, nghệ thuật trào phúng…
– Bài học đạo đức rút ra cho bản thân
Các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu 1
Có người nói rằng: Hài vốn là cái bi được đẩy lên đến đỉnh cao. Gốc của cái hài là cái bi, và sâu xa hơn là khát khao cái đẹp. Đằng sau tiếng cười ta thấy sự phê phán, bất bình của tác giả trước hiện thực. Điều này hoàn toàn có thể kiểm chứng qua những sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Mỗi tác phẩm của ông là một chuỗi cười dài đầy căm phẫn ném vào cái xã hội lố lăng, đồi bại đương thời. Trong số đó, số đỏ (1936) là tác phẩm tiêu biểu. Tiếng cười sắc nhọn của ông bật ra ở tất cả các chương trong cuốn tiểu thuyết. Đặc sắc nhất là đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, nằm ở chương XV. Đoạn trích đã lột tả được toàn bộ chân dung các nhân vật thông qua một tình huống đặc biệt.
Mỗi chương trong tiểu thuyết số đỏ đều có một nhan đề riêng và nhan đề nào cũng giật gân, độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc. Ngay trong cách đặt tên: “Hạnh phúc của một tang gia” đã bộc lộ tình huống trào phúng: “Tang gia” mà lại “hạnh phúc”, Nhà có người chết mà lại vui. Nhan đề này cho thấy tang gia quả có bối rối thật nhưng bối rối một cách sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám ma mà để tổ chức một ngày hội, một đám rước. Tiếng cười chỉ bật lên khỉ có mâu thuẫn, những chuyện ngược đời, trái lẽ thường, nhân sinh. Từ tiếng cười có tính chất mở đầu rất quan trọng này, người đọc theo sự chỉ dẫn của tác giả khám phá hàng loạt mâu thuẫn tiếp theo và ở mỗi mâu thuẫn, tiếng cười lại được bật ra thành một chuỗi cười dài đầy đau xót. Thông qua tình huống trào phúng này, chân dung các nhân vật trong xã hội “Số đỏ” cũng hiện lên hết sức sinh động, từ chân dung các cá nhân tới chân dung cả một tập thể, từ các thành viên trong gia đình tới các nhân vật đám đông ngoài xã hội. Nếu chân dung các cá nhân hiện lên rõ nét nhất trong cảnh tang gia thì chân dung nhân vật đám đông lại được bổ sung ở cảnh đưa đám.
Người chết là cụ cố tổ. Cụ để lại cho con cháu một gia tài lớn nhưng cụ già quái ác này lại ghi trong di chúc là chỉ chia tài sản cho con cháu sau khi cụ qua đời. Bởi vậy đám con cháu sốt ruột mong chờ cái chết của cụ như chờ đợi một niềm hạnh phúc. Và “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Như vậy, bước đầu tiên, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện ra cái hạnh phúc chung của đám con cháu cụ cố tổ. Cái hạnh phúc của họ làm cho nỗi bi ai tử biệt sinh li hoàn toàn mất ý nghĩa. Không khí đám ma cứ rộn ràng, tưng bừng như đang vào chính hội: “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê đám ma”; “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thoả thích”, Khách khứa đến chia buồn cũng “tấp nập” không kém.
Không dừng lại ở việc phát hiện ra niềm vui chung của đám thân thích trước thây ma xấu số, Vũ Trọng Phụng còn tiến thêm một bước quan trọng, đưa ngòi bút sắc sảo lách sâu vào suy nghĩ của mỗi nhân vật để bóc trần và tung hê lên không thương tiếc tất cả cái vui, cái hạnh phúc riêng đầy ích kỉ của chúng.
Cụ cố Hồng hiện lên là kẻ rởm đời, học đòi. Mới 60 tuổi mà đã thích người ta gọi là cụ cố. Từ trước tới nay cụ chỉ được diễn cái trò già cả trong gia đình. Thì nay, cái chết của ông bố dã tạo cho cụ cái cơ hội vàng để ông có dịp khoe già với thiên hạ. Cụ nhắm mắt mơ màng tới cảnh mình mặc đồ xô gai, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ chỏ: “úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Trong lúc tang gia bối rối, thẳng bồi tiêm đếm được đúng 1782 câu gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Cụ biết gì? Chúng ta không biết, chỉ thấy rằng lồ lộ trên trang giấy là một kẻ thích thể hiện. Cụ lặp lại câu nói ấy như một con vẹt . Không tư tưởng bởi chính câu nói đó cụ cũng không ý thức được nó là thế nào. Cũng như con số 1782 câu nói “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, người đọc không thể không chú ý tới con số 60 điếu thuốc phiện. Người ta thường nói “tang gia bối rối” nhưng ở đây hình như cụ cố Hồng không có chút mảy may lo lắng nào. Việc ông bố nằm xuống chẳng liên quan gì tới nếp sinh hoạt, của cụ cố. Cái khoái cảm của thuốc phiện để lại trong phổi đã xua tan hết thứ tình cảm cha – con nguyên sơ. Không chỉ bất hiếu, cụ cố Hồng còn đáng khinh bỉ hơn vì cố đóng vai một người con hiếu đễ. Người đọc sau tiếng cười bật ra trước sự kỳ quái của cụ thì lại càng đau xót và căm phẫn hơn khi nhận ra bản chất giả dối, hợm hĩnh, khoa trương ở nhân vật.
Dân gian có câu: “nhà dột từ nóc”, đám con cháu của cụ cố cũng tỏ ra không chịu kém cạnh cha ông mình. Chân dung đám con cháu phải kể tới đầu tiên là ông Văn Minh. Nhân vật này hiện lên với bộ mặt đăm đăm chiêu chiêu rất phù hợp với cảnh nhà có đám. Tuy nhiên, cái khiến ông mang bộ mặt ấy không phải là nỗi niềm dành cho người đã khuất mà là nghĩ cách làm sao “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông cụ” để “cái di chúc kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không phải là lí thuyết viển vông nữa”, Thêm vào đó, ông băn khoăn không biết nên đối xử với Xuân Tóc Đỏ thế nào. Xuân có tội đã tố cáo một em gái ông hoang dâm và quyến rũ một cô em gái khác làm cho gia phong nhà ông phải một phen chao đảo nhưng lại có công làm cho cụ tổ “chết thật”. Với Văn Minh, hai cái tội kia chỉ là tội nhỏ còn công của Xuân mới thực là lớn. Thì ra, danh dự, gia phong, phẩm giá của gia đình không có giá trị bằng những đồng tiền mà ông sắp được hưởng. Vũ Trọng Phụng đã rất tài tình khi phát hiện ra cái mâu thuẫn giữa hiện thực và bản chất, giữa bên ngoài và bên trong của nhân vật này. Bộ mặt đăm chiêu kia không xuất phát từ tình thương nhưng lại rất hợp với cảnh một người đang lúc tang gia bối rối.
Cậu Tú Tân thì “điên người lên” vì đã chuẩn bị mấy cái máy ảnh mà chưa được dùng tới. Với cậu, đám ma cụ cố tổ chỉ là dịp được thoả mãn một sở thích, một thú tiêu khiển.
Ông Phán mọc sừng tuy là người trực tiếp gây ra cái chết của cụ cố nhưng lại tỏ ra rất hạnh phúc. Thậm chí ông còn “trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương”, ông cháu rể quý hoá này lộ rõ là một kẻ hám tiền bất nhân. Hắn không chỉ coi đồng tiền hơn hạnh phúc mà còn coi nó quan trọng hơn cả danh dự bản thân. Bởi vậy Phán Mọc Sừng mới hỉ hả và ngạc nhiên “không ngờ rằng đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”. Cái chết của cụ cố tổ chính là khởi đầu cho một cuộc làm ăn lớn của ông.
Với bà Văn Minh và ông Typn thì đám tang là cơ hội ngàn năm có một để lăng xê, quảng cáo cho các mốt quần áo của trào lưu Âu hoá, Chính vì vậy, khi chưa thấy cụ cố Hồng ra lệnh phát phục, Văn Minh vợ “sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời” còn “ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của chính mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao”.
Như vậy, Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy nền nếp gia phong của giai cấp tư sản trong công cuộc “Âu hoá”, “Giải phóng”. Cái chết của cụ cố tổ trưởng là mất song lại được rất lớn; được tiền, được danh, được tình. Cái buồn hoá thành cái vui, đại tang trở thành đại hỷ. Nếu buồn trong lúc vui là bất nhã, vui trong lúc, buồn là bất nhân thì gia đình cụ cố Hồng là một gia đình đại bất nhân, bất nghĩa. Qua gia đình này, tác giả đã nói lên một sự thật cay đắng: lối sống Âu hóa đã làm băng hoại đạo đức, tấn công vào những thành trì tưởng kiên cố nhất là tình cha – con, vợ – chồng, ông – cháu.
Nếu ở cảnh tang gia, đám ma cụ cố tổ mới chỉ khiến cho một gia đình hạnh phúc thì ở cảnh đưa đám, không những gia đình mà còn cả xã hội cũng náo nức, tưng bừng theo.
Đám tang giống như một đám hội tưng bừng, rộn rã, “đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy”. Nó theo cả lối ta, Tây, Tàu, “có kiệu bát cống và lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú-dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối”. Đây là đám ma của nhà giàu, hơn nữa còn là của những kẻ hợm hĩnh, phô trương, lố lăng, kệch cỡm, thừa tiền nhưng thiếu học.
Trong cảnh đưa đám, Vũ Trọng Phụng đã thật tinh tường khi phát hiện ra mỗi người đều có những niềm vui riêng.
Min Đơ và Min Toa sung sướng tới cực điểm khi được “thuê giữ trật tự cho đám ma” vào giữa lúc “đang buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ” vì “không có ai đáng phạt mà phạt”. Cụ cố tổ nằm xuống đã giải quyết nạn thất nghiệp cho hai viên cảnh sát này nên cái hết lòng của chúng cũng chỉ là cái hết lòng vì tiền. Vũ Trọng Phụng đã lột trần bản chất của nghề cảnh sát trong xã hội thực dân. Thực chất nó chỉ có một chức năng duy nhất là nhăm nhăm phạt tiền của người khác mà thôi.
Trong đám ma này “ai cũng vui vẻ cả, trừ một Tuyết”. Một mình Tuyết đau khổ đến độ: “muốn tự tử được”, nhưng không phải vì người chết mà là đau khổ vì tình; “Tìm kiếm khắp mặt trong bọn người đi đưa đám ma cũng không thấy bạn trai đâu cả, Tuyết như bị kim châm vào lòng”. Đặc biệt, vẻ mặt và trang phục của cô có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt: “Hôm nay Tuyết mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-xê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xính để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh”. Với nhân vật này, đám ma là dịp để thanh minh với thiên hạ về sự “trong trắng” của mình, nhưng ngay trong sự thanh minh đã lộ ra bản chất “hư hỏng có lí luận” của cô “gái mới tân thời”.
Giống như cụ cố Hồng, bạn của cụ đến đám tang không phải để chia buồn mà là để khoe râu và khoe huân chương: “Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy huân chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn tượng bội tinh, vân vân… trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”. Với ngôn ngữ trào phúng, mỉa mai, tác giả đã tạo dựng trên trang vãn những gương mặt nham nhở, kì quái, đầy tính chất biếm hoạ. Đặc biệt, “những ông tai to mặt lớn thì sát ngày với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động hơn khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”. Như vậy, cái đạo mạo bên ngoài của các vị đã bị Vũ Trọng Phụng lột trần bản chất.
Cái chết của cụ cố tổ làm cho nhiều người sung sướng lắm. Trong đó có cả sư cụ Tăng Phú: “Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng mà vênh váo ngồi trên một cái xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo, và như thế thì là một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ vậy”. Cái xấu xa chưa bao giờ lại lộ ra công khai, trơ tráo, không cần che đậy như thế. Đấng tu hành tưởng đã dứt bỏ được mộng trần thì giờ đây hiện nguyên hình là một kẻ hãnh tiến, thủ đoạn, xấu xa.
Sau khi khắc họa những gương mặt cá nhân, Vũ Trọng Phụng tiếp tục khắc họa những gương mặt tập thể. Hàng loạt những từ ngữ mâu thuẫn đã được tác giả sử dụng để làm bật lên chân dung các nhân vật: “Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám ma”, Những diễn viên quần chúng này vào vai rất tài tình. Họ đi đưa ma song không hề có một lời hỏi han tới người nằm xuống mà chỉ thì thào những câu “vui vẻ, ý nhị, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma”.
Thì ra, đâu chỉ có lũ con cháu cụ cố tổ bất hiếu mà cả cái xã hội đương thời cũng là một xã hội bất nhân, đạo đức giả. Đám ma đầy đủ tất cả, từ vòng hoa, câu đối, tới khăn xô mũ mấn song lại thiếu duy nhất một thứ, đó là tình thương, Thậm chí, tiếng khóc cuối cùng của ông Phán mọc sừng khép lại đoạn trích cũng chỉ làm cho điều này bộc lộ rõ thêm: “ông ta khóc quá, muốn lặng đi (…). Ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi..Hứt!… Hứt! …Hứt”. Tiếng khóc song lại gây cười. Ông khóc tới không thể đứng nổi để mà thực hiện tốt công cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”. Đây là nhân vật cuối cùng khép lại đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” và cũng là một trong những diễn viên xuất sắc. Hắn đánh lừa không chì người ngoài mà ngay tới Xuân là người trong cuộc cũng không hề biết.
Trong đám tang có kẻ vô tình song cũng có kẻ hữu ý vào vai kịch rất đạt. Cái đám tang này hiện lên là một sân khấu cuộc đời. Nó cũng là một tấn trò đời mà đám con cháu chính là diễn viên. Lũ con cháu thì bất nhân, xã hội thì vô đạo, tất cả đều chỉ vì tiền, vì tình, vì danh, vì lợi. Theo mạch truyện, sự băng hoại ấy ngày càng lan rộng hơn, từ gia đình mà ra cả xã hội. Cũng giống Balzac xưa viết về người chết là để nói người sống, đằng sau tiếng cười của Vũ Trọng Phụng, ta thấy được sự phẫn uất cao độ của tác giả đối với xã hội thượng lưu đương thời. Có thể xem đoạn trích là số đỏ thu nhỏ, trong đó tư tưởng và nghệ thuật của tác giả được thể hiện một cách đặc sắc.
Các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu 2
Được mệnh danh là “Ông vua phóng sự đất Bắc”, Vũ Trọng Phụng đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc và ghi dấu ấn đậm nét của mình trong mảng văn học trào phúng Việt Nam. Số đỏ là cuốn tiểu thuyết ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học có nó cũng là tác phẩm đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được thể hiện trực tiếp thông qua việc khắc họa tâm trạng và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện.
“Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương V của tiểu thuyết Số đỏ nói về đám ma của cụ cố Tổ. Qua đám ma rình rang, hoành tráng đó tính cách của từng nhân vật dần được bộc lộ, không những thế, bằng tài năng nghệ thuật bậc thầy, tác giả Vũ Trọng Phụng đã vô cùng tinh tế khi đi miêu tả tâm trạng của từng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích ấy.
Đám ma của cụ cố Tổ diễn ra thật lạ lùng, lạ lùng từ những nghi thức đến thái độ của những thành viên trong gia đình và những người ngoài gia đình. Theo lẽ thường, một gia đình khi có tang thì không khí bao trùm là sự đau khổ, xót xa khi mất mát cả về người và tình cảm thì đám ma của cụ cố Tổ lại hoàn toàn trái với cái lẽ thường ấy. Không hề có giọt nước mắt đau khổ, xót thương nào mà ngược lại sự ra đi của cụ cố Tổ còn mang đến hạnh phúc cho tất cả mọi người, nghịch lí này được thể hiện chính trong nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”.
Tất cả mọi người trong gia đình đều có những niềm vui riêng trước sự ra đi của cụ cố Tổ. Cố Hồng là con trai của cụ cố Tổ, trước sự ra đi của bố- người đứng đầu gia đình, cố Hồng không tỏ ra lo lắng xót thương mà còn thấy hạnh phúc vì cuối cùng cũng được mặc áo xô gai, chống gậy, miệng ho lụ khụ. Cố Hồng vui vì được diễn vai của người con cả có hiếu, muốn được nghe những lời trầm trồ tán thưởng của bà con trong khu phố về cái phúc của một gia đình đại tư sản rằng khi con trai đã già mà cha mới mất.
Văn Minh là cháu đích tôn của người mất, theo lẽ thường Văn Minh cần hỗ trợ cha trong việc lo ma chay cho ông nhưng hắn ta lại cảm thấy vui sướng vì cái chúc thư kia cuối cùng cũng đi vào giai đoạn thực hành, thậm chí Văn Minh còn cãi nhau với vợ vì không biết nên cưới chạy tang hay không. Cô Tuyết vui vì được mặc bộ trang phục ngây thơ để khoe với mọi người rằng mình chưa đánh mất chữ trinh mà không biết rằng hành động của mình lố lăng đến kệch cỡm.
Phán Mọc Sừng vui sướng, hạnh phúc vì nhận được khoản tiền kha khá, cậu Tú Tân vui vì có dịp trổ tài chụp ảnh. Không những người trong gia đình cảm thấy hạnh phúc mà niềm vui có khả năng lây lan ra tất cả mọi người ngoài gia đình. Những người bạn của gia đình vui vì có dịp khoe các loại râu, các loại huân chương cao quý, đặc biệt hơn họ còn cảm thấy vui vì được ngắm bờ ngực thấp thoáng trong bộ y phục ngây thơ của cô Tuyết.
Hai viên cảnh sát Min-đơ, Min-toa thì vui vì được ghi biên bản phạt, đám thanh niên nam nữ đi đưa tang vui vì được trò chuyện vui vẻ, chim chuột nhau. Người dân hàng phố thì vui vì được “thưởng thức” một đám ma to của gia đình đại tư sản danh giá. Đám ma được tổ chức hoành tráng, nhưng lại mất đi cái trang nghiêm vốn có mà thể hiện đến tận cùng cái lố lăng, thiếu hiểu biết của những người trong gia đình.
Thông qua bối cảnh của đám ma, từng lớp mặt nạ của những nhân vật trong truyện được bóc trần, thể hiện đến cùng cái giả dối, giả nhân giả nghĩa của những kẻ tự xưng trí thức, những người thuộc giới thượng lưu danh giá. Từ việc khắc họa chân dung tính cách, tâm trạng của từng nhân vật Vũ Trọng Phụng đã châm biếm sâu cay với xã hội thực dân nửa phong kiến.
Các nhân vật trong hạnh phúc của một tang gia – Mẫu 3
“Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX. Dưới ngòi bút kỳ tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương “hạnh phúc của một tang gia”.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như “tết”: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.
Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời… để quảng cáo cho một kiểu đồ mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.
Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn “cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!
Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay., Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…
Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán, não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…
Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm …Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma. Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: “đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”. Thật là mỉa mai, chua chát!
Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: “ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Mấy chi tiết tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bàn tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: “ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức”. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết…ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.
Qua chương “Hạnh phúc của một tang gia” Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.
Phân tích tâm trạng các nhân vật – Mẫu 4
Số đỏ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Trọng Phụng cũng như của văn học trào phúng Việt Nam hiện đại. Tính chất trào phúng đó không chỉ thể hiện ở ngôn ngữ, giọng điệu, tình huống mà còn được bộc lộ trực tiếp, sắc nét nhất qua chân dung từng nhân vật trong tác phẩm trong đoạn trích Hạnh phúc một tang gia.
Câu chuyện bắt đầu bằng cái chết của một người ông già – cụ cố tổ. Đó là người ông, người cha, người bạn đáng kính của một gia đình thượng lưu. Những tưởng cái chết đó sẽ gây nên niềm đau xót khôn nguôi trong lòng người ở lại. Nhưng không, cái chết của cụ cố tổ lại là niềm vui, niềm hạnh phúc tột cùng của tất cả đám con cháu. Bởi bản di chúc ở trên giấy này đã được đi vào thực thi, bọn họ sẽ nhận được những gia sản kếch xù. Chính trong lúc tang gia bối rối, họ mỗi người nhao nhao lên theo một cách khác nhau, trưng diện một bộ mặt khác nhau để thể hiện lòng đau xót trong hạnh phúc tột cùng của mình.
Cụ cố Hồng, nhắm mắt mơ màng khi nghĩ đến giây phút mình mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa kho vừa khóc mếu, để cho thiên hạ chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Đây chính là cơ hội để cụ cố Hồng được diễn trò trước đám đông, là cơ hội để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mình thông qua việc tổ chức một đám ma thật to. Ông Văn Minh: Niềm vui riêng hòa lẫn niềm vui chung. Niềm vui của ông Văn Minh là biểu hiện cao độ cho niềm vui của cả gia đình: nóng lòng đợi luật sư đến để thực tế chia gia tài. Ông Văn Minh còn được Vũ Trọng Phụng miêu tả chi tiết đăm chiêu, vò đầu bứt tóc nhưng thực tế là đang không biết xử trí với Xuân tóc đỏ thế nào cho phải chứ không phải là lo lắng cho việc tổ chức đám tang của cụ cố tổ. Còn với bà Văn Minh vợ ông lại sung sướng khi được mặc bộ đồ xô gai tân thời, bà vui vẻ ra mặt, vì những mẫu đồ tân thời mới nhất bà sẽ nhân dịp này mà tung ra thị trường, biến đám tang thành nơi trình diễn, công bố bộ sưu tập mới nhất.
Ông phán mọc sừng, sung sướng, hả hê khi biết giá trị đôi sưng trên đầu mình, vì có nó mà ông sẽ được hưởng thêm một phần gia sản không nhỏ. Số tiền đó là đền bù cho danh dự của ông. Trong đám tang tiếng khóc Hứt ! Hứt của ông Phán mọc sừng liên tiếp được vang lên, ông khóc oắt người đi, đến nỗi không thể đứng vững, phải có Xuân Tóc Đỏ đỡ ông mới đứng được. Tưởng đó là nỗi đau rất thật, rất chân thành nhưng hành động dúi tiền vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ tiền gấp làm tư đã vạch trần bộ mặt dối trá của ông Phán mọc sừng. Hành động đó còn thể hiện mưu tính một cuộc hợp tác doanh thương với Xuân tóc đỏ để kiếm lợi nhuận.
Còn đối với Tuyết – cô gái hư hỏng một nửa lại vui mừng vì mình sẽ được mặc những trang phục Tân thời, bộ quần áo ngây thơ, nửa kín hở cái áo dài voan mỏng, đội một cái mũ nấm xinh xinh, khuôn mặt buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Bộ quần áo ngây thơ Tuyết mặc để chứng minh mình không hư hỏng với thiên hạ, còn khuôn mặt buồn rất lãng mạn tưởng là nỗi buồn do mất đi người thân nhưng thực tế lại là vi nhớ nhân tình – Xuân Tóc Đỏ khi mãi cô vẫn chưa thấy Xuân xuất hiện trong đám tang. Vẻ mặt bề ngoài và thực tế bên trong đã bị Vũ Trọng Phụng sử dụng lời lẽ châm biếm sâu cay vạch trần.
Cậu Tú Tân, khi nghe ông mất thì cứ điên người lên, vì chiếc máy ảnh mới mua của cậu sắp được đưa vào sử dụng. Trong lúc hạ huyệt trong bộ quần áo luộm thuộm, cậu bắt bẻ từng người chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt,… dường như cậu Tú Tân như một nhà đạo diễn đại tài để cho vở kịch đám tang đau buồn thêm phần hoàn hảo.
………….
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích tâm trạng các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia 2 Dàn ý & 11 bài văn mẫu hay nhất tại Blogdoanhnghiep.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.